Victor Serge
Viết năm: 1938
Nguồn: Partisan Review, vol. 5, no. 3, 1938, pp. 26–32.
Bản điện tử: https://www.marxists.org/archive/serge/1938/xx/ourtime.htm
Dịch sang Tiếng Việt: Lê Công Hoàng
Thành tựu lịch sử của chủ nghĩa Marx là không thể phủ nhận. Các đảng Marxist của Đệ Nhị Quốc tế đã kết đoàn và tổ chức giai cấp vô sản thời tiền chiến, đưa nó lên một tầm cao mới, thành hình nó một cách dân chủ. Nhưng vào năm 1914, họ đã chứng tỏ rằng mình là tù nhân bị giam cầm trong chủ nghĩa tư bản, xã hội mà họ vừa chống và cùng lúc đó cũng thích nghi bản thân với nó, mặc dù, trên thực tế, họ thích nghi với nó nhiều hơn là chống lại nó. Nhưng có một đảng Marxist, giữa dòng chảy hỗn loạn của Cách mạng Nga, đã biết cách gỡ rối những đường sức quyền lực, để liên tục hướng mình đến lợi ích cao nhất của những người vô sản, để biến bản thân trở thành bà đỡ của thế giới mới, theo đúng nghĩa. Những người Marxist đã phải hứng đòn chí mạng nhất trong những cuộc chiến giai cấp của giai đoạn hậu chiến; Những người Spartacist ở Đức, Tiessriaki ở Bulgaria, những người Cộng sản ở khắp nơi. Về sau, vào thời điểm cao trào nhất, cách mạng Trung Quốc đã chịu ảnh hưởng rất lớn bởi chủ nghĩa Marx cách mạng của người Nga – nhưng giờ đây đã bị thoái hóa, do cơn phản động đã trỗi dậy bên trong Liên Xô. Đúng thật, chủ nghĩa Marx ở Đức, xét cả hai dạng thức – Dân chủ Xã hội và Cộng sản – đã tỏ ra sự bất lực của chính mình trước cả sự tấn công của Quốc xã. Cùng với sự thoái hóa của Bolshevik, không nghi ngờ gì nữa, đây chính là thất bại nặng nề nhất mà chủ nghĩa Marx phải chịu. Tuy nhiên, chủ nghĩa Marx vẫn tiếp tục gây ảnh hưởng đến lịch sử thế giới. Trong khi những người đối lập không thể dung hòa đã bị bắt bớ và tiêu diệt bởi bè lũ Stalin, những người Marxist Áo đang tiến hành một cuộc đấu tranh, dù đau đớn nhưng bi hùng, đã cứu vớt chính họ khỏi sự thoái chí. Những người thợ mỏ Xã hội Chủ nghĩa ở Asturia những năm 34 đã giáng một đòn ngăn chặn đà tiến của phát xít Tây Ban Nha.
Thật phi lý khi cô lập tư tưởng Marxist khỏi những thực tế xã hội ấy. Hơn cả là một học thuyết khoa học, chủ nghĩa Marx là một thực tế lịch sử. Nếu như một ai đó muốn hiểu nó, người đó phải hiểu nó trên mọi phương diện. Và người đó rồi sẽ nhận ra rằng, kể từ sự ra đời, cực thịnh và tha hóa của Công giáo, không còn một sự kiện nào có tầm ảnh hưởng hơn đối với đời sống nhân loại.
Sự thức tỉnh của ý thức đòi hỏi ta phải hành động, và xa hơn là đòi hỏi sự thống nhất giữa hành động và tư tưởng. Đây chính là khi con người tái hợp với chính mình, bất kể sức nặng đang đè nén định mệnh con người có là gì đi nữa. Họ không còn cảm thấy mình là đồ chơi của những thế lực mù quáng vô tận. Họ tự mình đối mặt với những thảm kịch tồi tệ nhất, và ngay cả giữa những thất bại to lớn ấy, họ thấy mình được mở rộng hơn nhờ khả năng thấu hiểu, ý chí hành động và phản kháng, cùng với cảm giác không thể xóa nhòa khi được hiệp đồng trong những hy vọng của chính mình và tập thể nhân loại theo tiến trình của nó qua thời gian
Chủ nghĩa Marx của thời kì đế quốc đã bị phân liệt. Nó mang tính chất dân tộc/quốc gia chủ nghĩa và hoàn toàn là cải lương. Có rất ít những người theo nó – một Rosa Luxembourg, một Lenin, một Trotsky, một Hermann Gorter – hướng mình ra xa xăm phía chân trời, vượt ra hẳn những sự trù phú vật chất của tư bản. Nếu không thì chủ nghĩa Marx vắt vẻo trên đỉnh cao triết học tách biệt ra hẳn khỏi hành động trực tiếp, hoặc cũng thành một thứ đơn thuần có màu của chủ nghĩa không tưởng Cơ đốc Giáo (thứ mà trong nền văn hóa của chúng ta là Do Thái giáo, trước khi nó trở thành công giáo: Hãy đọc những Lời Khải thị đi!).
Chủ nghĩa Marx của thời kì đế quốc đã bị phân liệt. Nó mang tính dân tộc/quốc gia chủ nghĩa và phản cách mạng ở những nước nơi nó đã là cải lương; nó mang tính cách mạng và quốc tế chủ nghĩa ở Nga, đất nước duy nhất nơi sự sụp đổ của tàn dư chế độ cũ đã khiến những người vô sản phải đứng lên tiến hành trọn vẹn sứ mệnh của mình.
Chủ nghĩa Marx của Cách mạng Nga thoạt đầu là quốc tế chủ nghĩa nhiệt thành và tự do (học thuyết của Nhà nước Cộng sản, Liên minh của các Xô Viết), nhưng trong tình thế bị bao vây, nó trở nên càng ngày càng độc đoán và hà khắc.
Chủ nghĩa Marx của thời kì Bolshevik suy tàn – hay là chủ nghĩa Marx của đẳng cấp quan liêu, những kẻ tước đoạt quyền hành từ tay giai cấp vô sản – là một thứ chủ nghĩa toàn trị, độc tài, vô đạo và cơ hội. Nó kết thúc trong sự phủ định kì lạ và nổi loạn nhất của chính nó.
Điều này có nghĩa là gì, nếu không phải là việc ý thức xã hội, kể cả những dạng thức cao nhất của nó cũng chẳng thể thoát ra khỏi ảnh hưởng từ thực tại mà nó biểu hiện, nó phản ánh và muốn vượt qua?
Điều này cũng tương tự đối với sự thoái hóa trầm trọng của nền chuyên chính vô sản ở Liên Xô. Ở đây, sự trừng phạt đối với những người Bolshevik cũ, bị tiêu diệt bởi chính chế độ họ tạo ra, chẳng là gì khác ngoài một hiện tượng của cuộc đấu tranh giai cấp. Giai cấp vô sản, bị lật đổ quyền lực bởi đẳng cấp những kẻ cơ hội bám rễ trong Nhà nước mới, chỉ có thể xem xét được những nguyên nhân căn bản cho sự thất bại của chính mình, và đồng thời, chỉ có thể chuẩn bị lực lượng cho cuộc tranh đấu ngày mai bằng phương thức phân tích của chủ nghĩa Marx.
Chủ nghĩa Marx của thời kì khủng hoảng cách mạng đầu tiên lớn lao nhất thế giới hiện đại, đại diện chủ yếu bởi người Nga – có thể nói rằng, bởi những con người được hình thành trong trường phái độc tài – đã chứng minh cho ta thấy một sự thiếu quyết đoán theo kiểu khác, và kiểu này đã khiến họ đi đến con đường hủy diệt: nó không dám đứng trên một lập trường tự do khai phóng. Hoặc nói đúng hơn, nó chỉ mang lập trường khai phóng trên lời nói và chỉ trong thời gian ngắn, vào giai đoạn dân chủ Xô-viết ngắn ngủi kéo dài từ tháng Mười năm 1917 đến hè năm 1918. Và rồi nó bắt đầu giành lại quyển kiểm soát tất cả và kiên quyết bước vào con đường “nhà nước tập quyền” – chuyên chế, rồi sau đó là độc tài. Nó không còn sự tự do.
Cũng dễ để giải thích – thậm chí là biện minh – cho sự phát triển này của chủ nghĩa Marx Bolshevik, qua việc chỉ ra những mối hiểm họa chết chóc đang thường trực, Nội chiến, sự bảo vệ kiên định đối với an ninh công cộng của Lenin, Trotsky, Dzerzhinsky. Cũng dễ, và đúng khi nhận ra rằng chính sách này, vào những thời kì đầu, đã bảo đảm chiến thắng của giai cấp công nhân – một chiến thắng giành được trước những khó khăn thật sự chưa từng có tiền lệ. Tuy nhiên, chúng ta cần phải nhận ra rằng, chính sách này về sau đã dẫn đến việc giai cấp công nhân bị đánh bại bởi chế độ quan liêu. Những lãnh đạo Bolshevik trong những năm tháng vĩ đại ấy không hề thiếu kiến thức, thiếu trí lực hay sức lực. Nhưng họ thiếu sự quả cảm cách mạng, khi việc tìm giải pháp cho những vấn đề (sau 1918) thông qua sự tự do của quần chúng là nhu cầu bức thiết, thay vì sự kiểm soát của chính quyền. Họ đã dựng lên một hệ thống không phải một Nhà nước Cộng sản khai phóng như họ từng tuyên bố, mà là một Nhà nước mạnh theo đúng nghĩa cổ điển, nó mạnh trong lực lượng cảnh sát của nó, trong sự kiểm duyệt của nó, trong sự độc quyền của nó, trong các ban bệ toàn năng. Trên khía cạnh này, ta có thể nhận rõ sự tương phản rõ rệt giữa chương trình của Bolshevik năm 1917 và cấu trúc chính trị được tạo nên bởi Bolshevik năm 1919.
Sau khi chiến thắng trong cuộc Nội chiến, giải pháp Xã hội Chủ nghĩa cho các vấn đề của xã hội mới đáng ra cần phải tìm trong dân chủ vô sản, khuyến khích các sáng kiến, tự do tư tưởng, tự do cho các hội nhóm của giai cấp vô sản, chứ không phải như nó đã làm, đó là tập trung quyền hành, đàn áp bất đồng chính kiến, hệ thống đơn đảng độc nhất, hệ thống chính thống hẹp hòi của một tư tưởng chính thức. Ách bá quyền và ý thức hệ của một đảng đơn nhất đáng ra nên là một lời tiên tri cảnh báo về ách bá quyền và ý thức hệ của một lãnh tụ đơn nhất. Sự tập trung quyền lực cực đoan này, sự sợ hãi tự do và các biến thể ý thức hệ khác, sự tái lập trình tuân phục một quyền hành tuyệt đối, đã tước đi sức mạnh của quần chúng và khiến cho tầng lớp quan liêu mạnh lên. Vào thời điểm đó, Lenin và Trotsky đã nhận ra được mối hiểm nguy đó và muốn quay lại – lúc đầu chỉ rất dè dặt: đỉnh cao cho sự táo bạo trong đường lối của phái Đối lập Cánh tả trong Đảng Bolshevik chỉ đơn giản là đòi hỏi sự tái lập dân chủ trong Đảng, và nó không hề dám đả động đến học thuyết nhà nước đơn đảng – đến lúc đấy thì đã quá muộn rồi.
Sự sợ hãi tự do, cũng chính là sự sợ hãi quần chúng, đã đánh dấu suốt toàn bộ quá trình của Cách mạng Nga. Nếu như có thể rút ra được một bài học đắt giá, có thể nào hồi sinh được chủ nghĩa Marx, thứ nay đang bị đe dọa hơn bao giờ hết bởi sự sụp đổ của Bolshevik, ta có thể rút ra được thông qua những ý như sau: Xã hội Chủ nghĩa về cốt lõi là dân chủ - từ “dân chủ” ở đây được dùng với nét nghĩa khai phóng của nó. Chúng ta có thể thấy ngày nay Liên Xô không có tự do tư tưởng, không có tự do ngôn luận, không có tự do chỉ trích, không có tự do sáng kiến, và sản xuất xã hội chủ nghĩa chỉ có thể đi từ khủng hoảng này đến khủng hoảng khác. Tự do cũng rất quan trọng đối với Chủ nghĩa Xã hội, cũng như tinh thần tự do là thứ rất quan trọng đối với chủ nghĩa Marx, như dưỡng khí cũng quan trọng với sinh vật sống.
Vào tháng 5 năm 1936, tôi đã viết thư cho André Gide, trước khi anh rời để đến Liên Xô: “Chúng ta tạo nên một mặt trận chung chống lại Phát xít. Nhưng làm thế nào mà chúng ta có thể cản bước nó, với quá nhiều trại tập trung ở bên phía chúng ta? Nhiệm vụ của chúng ta không còn đơn giản nữa, và không ai được phép tối giản nhiệm vụ ấy nữa. Không có một sự chính thống mới nào, không có những lời dối trá thần thánh nào còn có thể làm dịu đi cơn bỏng rát này nữa. Xét trên một mặt nào đó, chỉ có Liên bang Xô Viết còn là hy vọng lớn nhất của nhân loại ngày nay, và dù xét thế nào thì, những người vô sản Xô viết vẫn còn chưa nói lời cáo chung.”
Mọi xung đột xã hội cũng đều là một cuộc đua. Nếu như chủ nghĩa xã hội chiến thắng được chủ nghĩa phát xít, nó chắc chắn phải đem điều kiện xã hội của nhân loại lên một tầm cao mới.
Liệu có cần thiết phải nhấn mạnh lại lần nữa rằng, chủ nghĩa Marx rối loạn, bóp méo và đẫm máu của những tay xạ thủ, đao phủ của Moscow – không phải là chủ nghĩa Marx hay không? Rằng nó tự phủ định, tự sai lệch, và vô hiệu chính nó? Quần chúng, đáng buồn thay, sẽ mất kha khá thời gian để nhận ra điều ấy. Họ sống không phải nhờ vào những suy nghĩ lý tính và rõ ràng, mà dựa vào những ấn tượng được thay đổi từ từ bởi bài học kinh nghiệm. Do tất cả những thứ này diễn ra dưới lá cờ bị chiếm đoạt từ chủ nghĩa Marx, thì chúng ta cũng nên tính đến việc, quần chúng, không thể áp dụng cách phân tích Marxist để phân tích những bi kịch này, sẽ chống lại chủ nghĩa Marx. Tất cả những thứ này đều đúng với mong muốn của kẻ thù chúng ta.
Nhưng tư tưởng khoa học không thể nào tụt xuống dưới mức của chủ nghĩa Marx, hay là giai cấp vô sản cũng không thể nào hành động mà không có vũ khí trí lực này. Giai cấp vô sản châu Âu giờ đây vẫn đang hồi phục sức mạnh vốn đã bị hao mòn và rút cạn từ cuộc thế chiến, nền tảng công nghiệp của nó đang mở rộng mạnh mẽ. Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang tiếp diễn. Đối với lớp vỏ mới của những tên độc tài, ta đã nghe thấy nền móng của cấu trúc xã hội cũ đang rạn nứt. Chủ nghĩa Marx rồi sẽ trải qua cung bậc thăng trầm, có thể sẽ bị lu mờ trong bóng đêm. Tuy nhiên, sức mạnh của nó, được hình thành qua dòng lịch sử, dường như không thể cạn vơi. Vì nền tảng của nó là kiến thức, kết hợp cùng với sự tất yếu phải cách mạng.